Học Đạo

Học đạo đức, học đạo lý, học làm người

  • Home
  • Lời dạy
  • Thơ đạo
  • Câu chuyện
    • Chuyện về Đức Phật
    • Truyện nhà thiền
  • Video
    • Bụt kể con nghe
  • Đạo Phật
    • Kinh Pháp Cú
    • Thư viện Phật Giáo
  • Blog

Chân dung Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật (ảnh màu)

Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ lúc Thành đạo cho đến khi Niết Bàn, Đức Phật đã giúp cho rất nhiều những đệ tử của Ngài chứng đắc quả A la hán. Trong số các đệ tử xuất gia có 10 vị đặc biệt, thường được gọi là Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật. Mười vị này mỗi vị đều có những năng lực đặc biệt, những sở trường, sở chứng và đạo hạnh riêng.

Mười vị Đại Đệ tử của Phật là 10 tấm gương sáng về các hạnh nguyện, đức tính và năng lực đặc biệt:

1. Tôn giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) - Trí tuệ đệ nhất

Tôn giả Xá Lợi Phất

Ngài được xem là trưởng tử của Như Lai, thường giảng dạy đồ chúng thay cho Đức Phật và hướng dẫn cho nhiều vị đắc quả A La Hán. Ngài luôn luôn tỏ ra khiêm tốn, tận tụy, nhiệt tình, được chư Tăng thán phục và được Đức Phật khen là Trí tuệ bậc nhất. Ngài đắc quả A La Hán 4 tuần sau khi xin gia nhập giáo đoàn. Xá Lợi Phất là con trong một gia đình danh giá Bà La Môn ở vùng Ubatissa. Từ nhỏ rất thông tuệ, học giỏi, được mọi người trọng vọng. Ngài có người bạn thân là Mục Kiền Liên. Cả hai Ngài là môn đệ xuất sắc của một vị thầy nổi tiếng, đã đạt được những thành quả tột đỉnh của môn phái ấy nhưng chưa vừa ý nên khi gặp Ngài Assaji (một trong năm anh em Kiều Trần Như) liền nhận ra chánh pháp và quy y Phật.

2. Tôn giả Mục Kiền Liên (Moggallana) - Thần thông đệ nhất

Tôn giả Mục Kiền Liên

Ngài là con một gia đình Bà La Môn đanh tiếng. Ngài theo Tôn giả Xá Lợi Phất quy y Phật và sau 7 ngày đắc quả A La Hán, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Đức Phật trong Định, khi Ngài đang sống độc cư trong rừng. Ngài được Đức Phật khen và đại chúng công nhận là Thần thông bậc nhất. Ngài đã nhiều lần thi triển thần thông như phương tiện để giáo hóa cứu độ mọi người. Ngài cùng với Xá Lợi Phất điều hành và hướng dẫn Tăng chúng, cũng như độ cho nhiều người chứng đắc Thánh quả. Cuối đời, Ngài bị phái Ni Kiền Tử hãm hại bằng cách lăn đá làm Ngài bị tử thương. Đức Phật xác nhận Ngài Mục Kiền Liên đã nhập Niết Bàn ngay tại chỗ thọ nạn, nơi Ngài bỏ thân tứ đại.

3. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp (Mahakassapa) - Đầu đà đệ nhất

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp

Ngài được Đức Thế Tôn nhiếp hóa trước hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, được Thế Tôn cho là Đầu Đà (khổ hạnh) đệ nhất. Sinh hoạt theo hạnh đầu đà là một lối sinh hoạt cực kỳ đơn giản nhằm mục đích tịnh hoá tâm hồn, rất thích hợp với những ai thích tu phạm hạnh như Ngài Ca Diếp. Sau khi xuất gia tu hạnh Đầu Đà trong 8 ngày liền, Ngài đắc quả A La Hán. Ngài tinh thông con đường thiền định, nêu gương sáng cho chúng Tăng về các hạnh : “Ít muốn, biết đủ, tinh tân, xả ly”. Ngài thường độc cư trong rừng dù tuổi đã cao.

4. Tôn giả A Na Luật (Anurauddha) - Thiên nhãn đệ nhất

Tôn giả A Na Luật

Trong tăng chúng Ngài nổi tiếng là bậc tu hành rất thanh tịnh, không bao giờ bị nữ sắc cám dỗ, vì vậy được mọi người kính ngưỡng. Duy có một tật nhỏ là tật ưa ngủ gục mỗi khi ngồi nghe Phật thuyết pháp, từng bị Phật quở trách đôi ba phen. Từ đó Ngài lập hạnh “không ngủ” từ đầu hôm đến suốt sáng, từ tảng sáng đến chiều đêm, Ngài ngồi mở to đôi mắt nhìn vào khoảng không, không chớp mắt, cho đến một hôm thì hai mắt sưng vù rồi bị mù loà. Chính Đức Phật cầm tay chỉ dạy giúp Ngài may áo và dạy phương pháp tu định để khiến mắt sáng ra, Ngài thực hành một cách triệt để nên được sáng mắt trở lại và chứng được Thiên nhãn thông, bất quản xa gần, bất luận trong ngoài, mắt Ngài đều thấy suốt. Phật dùng chánh pháp phương tiện dạy cho Ngài thể nhập tánh thấy viên dung, không lệ thuộc vào nhãn căn. Ngài chứng đắc pháp này và thấy ba cõi như một quả Amla được cầm trên tay, được Phật ấn chứng là Thiên nhãn đệ nhất.

5. Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhuti) - Giải không đệ nhất

Tôn giả Tu Bồ Đề

Theo truyền thuyết của kinh sách Đại thừa, lúc Ngài mới sanh, trong gia đình Ngài toàn hiện ra những triệu chứng “không”. Các đồ vật trong nhà, từ kho lẫm, lu vãi... mọi vật biến đâu mất cả, chỉ thuần tịnh một mùi hương chiên đàn và hào quang sáng soi chấn động cả ba cõi, không thấy đâu là tường vách giới hạn. Hỏi về ý nghĩa điềm lạ này thì được thầy tướng bảo rằng đó là điều cực lành. Rồi nhân vì điềm “không” ấy, nên cha mẹ Ngài mới đặt tên cho Ngài là Tu Bồ Đề, nghĩa là Không Sanh. Lại cũng có nghĩa là Thiện Cát (tốt lành) hay Thiện Hiện (hiện điềm tốt).

6. Tôn giả Phú Lâu Na (Punna): Thuyết pháp đệ nhất

Tôn giả Phú Lâu Na

Tôn giả Phú Lâu Na vốn được gọi là "Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử". Phú Lâu Na chỉ là tiếng gọi tắt. Danh hiệu Ngài dài như thế chính là biểu hiện cho Tôn giả khi thuyết pháp cũng trường mãn vô cùng. Danh xưng của Ngài được dịch sang tiếng Trung Hoa là "Mãn Từ Tử". Đức Phật thường ngợi khen biện tài ngôn luận của Tôn giả trước đại chúng. "Các ông cũng nên xưng tán Phú Lâu Na. Ta thường khen ông ấy là bậc nhất trong hạng người thuyết pháp. Ông ấy thâm nhập biển Phật pháp hay làm lợi ích cho tất cả người đồng tu học đạo, trừ Đức Phật ra, không ai có thể biện bác ngôn luận với ông."

7. Tôn giả Ca Chiên Diên (Kaccana) - Luận nghị đệ nhất

Tôn giả Ca Chiên Diên

Ngài có biệt tài dùng lời nói rất đơn giản khiến những ai vấn nạn Ngài đều phải thần phục. Trong suốt cuộc đời hành hoá, nhờ tài nghị luận xảo diệu, Ngài đã cảm hoá được rất nhiều người, khiến họ tỉnh ngộ trở về với Tam bảo, sống một đời sống thanh thản an vui.

8. Tôn giả Ưu Ba Ly (Upali) - Trì giới đệ nhất

Tôn giả Ưu Ba Ly

Ưu Ba Ly vốn thuộc giai cấp nô lệ Thủ Đà La, xuất thân làm nghề thợ cạo tóc, hầu hạ trong vương cung. Ngày Phật về thăm Ca Tỳ La Vệ lần đầu tiên và chấp thuận cho các vương tử xuất gia, Ưu Ba Ly tủi hổ cho phận mình sanh ra trong chốn hạ tiện, ở thế gian làm thân nô lệ đã đành, muốn lìa thế gian đi tu cũng không được phép. Ngài là người nô lệ đầu tiên được Phật cho xuất gia, thu nhận vào tăng đoàn. Xuất gia tu thiền sau một thời gian ngắn Ngài chứng quả A La Hán. Ngài được Đức Phật cho là đệ nhất Trì giới và được giao việc xử lý và tuyên luật.

9. Tôn giả A Nan (Ananda) - Đa văn đệ nhất

Tôn giả A Nan Đà

Ngài là em họ Đức Phật, xuất gia khi Phật về thăm hoàng cung, Ngài là vị tỳ kheo đệ nhất về 5 phương diện : Đa văn, cảnh giác, sức khỏe đi bộ, lòng kiên trì và chăm sóc chu đáo. Được Thánh chúng đề nghị làm thị giả Đức Phật khi Đức Phật được 56 tuổi. A Nan hoan hỷ chấp thuận với điều kiện: Thế Tôn từ chối 4 việc và chấp thuận 4 việc:

Từ chối: không cho tôn giả y, đồ ăn, phòng ở riêng và mời ăn.

Chấp thuận: Thế Tôn cho phép nếu Tôn giả được thí chủ mời đi thọ trai. Nếu có người từ xa đến xin ý kiến, Thế Tôn cho phép khi A Nan giới thiệu. Thế Tôn cho A Nan yết kiến khi Ngài gặp điều khó xử. Thế Tôn giảng lại những giáo lý cho Ngài, trong những lúc Ngày vắng mặt.

10. Tôn giả La Hầu La (Rahula) - Mật hạnh đệ nhất

Tôn giả La Hầu La

Ngài là con của Thái tử Tất Đạt Đa và công chúa Da Du Đà La. Khi về thăm quê lần đầu tiên, Phật tìm cách đưa La Hầu La đi xuất gia và giao cho Xá Lợi Phất dạy bảo. Được Phật và Xá Lợi Phất từ mẫn giáo hoá, tập khí cương cường của dòng máu vương giả trong người La Hầu La ngày một mờ nhạt và tính tình dần dần trở nên ôn hoà nhu thuận. Ngài nghiêm trì giới luật, tinh tấn đạo tâm, quyết luyện mật hạnh. Sau một thời gian chăm chú luyện mật hạnh và từ câu nói đơn giản của Phật “Hãy nhìn vào vạn tượng sum la kia, rồi nhìn lui vào tâm niệm và thân thể của mình, để xem có gì đứng yên một chỗ không? Vô thường! Vô thường tất cả! Nên biết như thế và đừng để cho tâm chấp trước dính mắc vào đâu cả”. Chiêm nghiệm lời Phật dạy, Ngài đã chứng được tận cùng của Mật hạnh và được Phật khen là Mật hạnh đệ nhất.

Chú thích: Ảnh được tái tạo lại bằng AI từ ảnh chân dung đen trắng. (Nguồn: phatgiao.org.vn)

Bài viết liên quan:

  1. Kinh đại hạnh phúc
  2. Lần lữa...
  3. Thường nghiệp (Acinna Kamma)
  4. Từ bi nguyện
  5. Kinh Pháp Cú - Phẩm Tâm
Phim hoạt hình Bụt kể con nghe

Bài viết gần đây

Kinh Pháp Cú - Phẩm Ngàn

Kinh Pháp Cú - Phẩm A La Hán

Kinh Pháp Cú - Phẩm Hiền Trí

Kinh Pháp Cú - Phẩm Ngu

Kinh Pháp Cú - Phẩm Hoa

Chân dung Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật (ảnh màu)

Kinh Pháp Cú - Phẩm Tâm

Kinh Pháp Cú - Phẩm Không Phóng Dật

Menu

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Liên hệ

Lời cầu nguyện

Cầu cho tất cả mọi người trên thế giới này biết yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau. Cầu cho tất cả mọi người bớt đi đau khổ, lo âu, phiền muộn, sân hận, thù ghét và đạt được sự bình an, hạnh phúc trong tâm hồn.

Những hình ảnh, bài viết trong này đều được khuyến khích lan tỏa đến với mọi người.

Mạng xã hội

  • Facebook Page
  • Facebook Group
  • Pinterest
  • Youtube